Chúng ta

Ký ức một thời sinh viên

Thứ sáu, 23/2/2007 | 09:59 GMT+7



Cứ đến mùa tựu trường, lòng tôi lại xốn xang những kỷ niệm của một thời sinh viên. Những tháng năm đó đã vụt trôi trong chớp mắt, và tôi biết thời gian đi qua là không thể lấy lại nữa. Nhưng những kỉ niệm thì vẫn còn, và mãi còn đó. Với tôi một miền ký ức không thể quên được đó là những tháng ngày đầu tiên với FPT.

Đó là những ngày đầu của năm học thứ ba, tôi được anh Bùi Quang Ngọc giới thiệu vào thực tập ở FPT, và cho tới lúc đó anh là người FPT duy nhất mà tôi biết. Công ty khi đó còn nằm trong trường cấp hai Gảng Võ, ở tầng hai. Tôi còn nhớ phải lỡ mất hai lần hẹn, tới lần thứ ba tôi mới gặp được anh. Anh Ngọc bảo tôi đi theo anh sang một căn phòng hẹp và chạy dài như hình ống, ngoài cửa đề một cái biển rất oách “Phòng Nghiên cứu phát triển”. Anh giới thiệu tôi với anh Lâm Phương, người lúc đó đang phụ trách phòng, và dặn tôi làm theo các hướng dẫn của anh Phương. Tôi còn nhớ mãi cái cảm giác choáng ngợp khi bước vào căn phòng ấy. Nằm dọc theo hai tường nhà là hai dãy bàn máy móc chất đống. Ngồi ngay sát cửa ra vào là một thanh niên trắng trẻo, đeo kính cận dày cộp, lầm lì, ôm hai chiếc máy tính cùng lúc và gõ bàn phím như điên. Sau này tôi mới biết đó là anh Đình Anh. Anh Phương và anh Hùng Sơn thì suốt ngày chúi đầu vào một chiếc máy Olivetti to vật vã, đó là chiếc LSX chuyên đời để chạy UNIX, mà bây giờ nó đang yên nghỉ trong góc phòng cạnh máy điều hòa ở tầng III. Trong góc nhà là chỗ ngồi của anh Khánh Văn, một con người luôn đạo mạo, ít nói và râu lúc nào cũng lởm chởm. Phải đến học kỳ sau tôi mới biết anh Văn lại chính là thầy giáo của chúng tôi ở trường. Cũng trong buổi đầu tiên lên công ty, tôi còn nhận ra một cậu bạn cùng khối K36 là Quang Anh cũng đang thực tập ở đây. Và mặc dù trước đó hai thằng chưa bao giờ nói chuyện với nhau, nhưng cái cảm giác cùng niên cùng khóa đã làm cho chúng tôi dễ dàng nói chuyện với nhau ngay từ buổi đầu tiên. Có lẽ con người luôn có cảm giác được sống trong tình bạn bè thì mọi công việc đều trở nên dẽ dàng hơn. Rồi tôi được anh Phương phân công nghiên cứu UNIX, bắt đầu từ chương trình HELLO.C; Quang Anh thì bắt tay vào nghiên cứu Visual Basic 3.0. Trái ngược với màn hình soạn thảo chương trìn đen xì trên UNIX của tôi, là màn hình Windows với các hộp, phím…đẹp mê mẩn của Quang Anh.

Thỉnh thoảng tôi cũng mon men đi sang mấy phòng xung quanh để xem. Hồi ấy chúng tôi cũng nhát lắm, không bạo như các bạn sinh viên thực tập bây giờ. FPT tại Giảng Võ lúc ấy chiếm chọn vẹn tầng hai, lần lượt có 4 phòng: Phòng họp, kho, phòng nghiên cứu phát triển và lập trình, nhà ăn và nhà bếp liền nhau. Sát liền phòng nghiên cứu là phòng của các lập trình viên, có một cửa ngách thông giữa hai phòng với nhau. Suốt một thời gian dài, tôi không dám chui sang phòng bên cạnh, lúc đó là cả một thế giới bí hiểm đối với tôi. Sau này, khi đã quen, tôi hay sang phòng này để in tài liệu, vì lúc đó chỉ có duy nhất một chiếc máy in Laser HP ở bên ấy. Và tôi đã thật sự ngạc nhiên khi thấy cách bố trí của phòng. Tôi vẫn tiếc tại sao bây giờ ở 37 Láng Hạ. Phần mềm không còn được bố trí được theo kiểu tại Giảng Võ, hay như tại Ngọc Khánh sau này. Phòng không rông lắm, nhưng chia khoang rất hợp lý theo kiểu so le, chứ không đều tăm tắp như ở Láng Hạ bây giờ. Bây giờ treo đầy các tranh ảnh rất đẹp về các loại máy tính, các quảng cáo phần mềm, phần cứng, máy in…của các hãng nổi tiếng trên thế giới. Sàn nhà trải thảm mềm, mùa đông rất ấm cúng. Cái cảm giác ấm cúng ấy giờ đây tôi chẳng thể thấy lại nữa. Tôi cũng được biết thêm các anh chị khác cũng trong đội lập trình của ISC lúc bấy giờ là anh Thành Nam, anh Khắc Thành, anh Khánh hói – người suốt ngày đi lại và xoa bụng, hay chỉ trỏ và thỉnh thoảng nói mấy câu bâng quơ nghe rất buồn cười; anh Nam, anh Linh, chị Hương, anh Thắng, tất cả đều học K33 Tin học Bách Khoa. Một điều rất dễ nhận thấy lúc ấy là cả bộ phận chỉ có hai lập trình viên là nữ, một là chị Hương, và một là chị Tú Huyền. Chị Huyền khi đó đang bắt tay vào làm chương trình cho Ngân hàng VID-Public, nên thỉnh thoảng phải gặp và trao đổi với một thanh niên người Mã, chính là anh Mu-săng rất quen thuộc với phần mềm sau này. Phong cách làm việc hết sức tự nhiên của chị đã để lại ấn tượng mạnh trong tôi. Nói tiếng Anh liên tục, gõ bàn phím nhoay nhoáy và một khả năng thuyết phục đến kỳ lạ, tôi chỉ thấy anh người Mã gật đầu liên tục mà chẳng bao giờ thây lắc cả. Một nhân vật cũng để lại ấn tượng cho tôi trong những ngày đầu tiên này là anh Triều. Lúc đó K35 đang là sinh viên thực tập tại FPT, gồm có anh Hùng Sơn, anh Triều và anh Cù Huy Minh Tuấn. Ngay từ mấy năm đầu, tôi đã để ý một thanh niên trông mặt rất quen (có lẽ vì cùng trường cấp 3, và cùng học BK), cao gầy nhẳng (hồi đó Triều gầy lắm chứ không tốt mã như bây giờ), suốt ngày đi lại tây chân vung vẩy trông rất ngộ, miệng luôn cười toe toét. Sau này khi nằm trong cùng một nhóm làm việc với nhau, tôi còn học được ở anh nhiều tư tưởng hay trong lập trình.

Thế giới thấm thoát trôi, tôi và Quang Anh cũng dần cũng làm quen được với cách thức tự nghiên cứu lấy. Nhưng cả hai đứa đều chưa biết sẽ làm tiếp những gì với một vốn kiến thức ít ỏi và khá đơn điệu kèm theo một vài bài tập ví dụ của mình.

Mọi việc bắt đầu từ tháng 3/1994. Đây là cái mốc thời gian mà có lẽ toi không bao giờ quên. Đó là thời điểm tôi được tham gia vào một dự án phần mềm đâù tiên trong đời. Hôm ấy như thường lệ, tôi lên công ty và lại chúi mũi và cái máy UNIX. Làm được một lát thì Quang Anh bảo anh Thành Nam gọi sang gặp bên phòng họp. Lúc ấy cũng là cuối giờ chiều. Sang tới nơi, tôi thấy đông quá. Tôi chỉ nhớ được hôm ấy có anh Thành Nam, anh Đình Anh, anh Triều, anh Hùng Sơn, anh Cù Tuấn, chị Việt Anh – sinh viên thực tập của K34 đang làm tốt nghiệp, Quang Anh và tôi. Lúc đó có cả hai anh nữa trông có vẻ cao tuổi, có lẽ chỉ kém anh Thành Nam, anh Nam giới thiệu một người là anh Đinh Quang Thái (bây giờ anh là phó giám đốc FIS), và một người là anh Nguyễn Tấn Vinh (bây giờ là phó phòng UDXL Tin tại BIDV). Anh Nam cho biết là FPT vừa ký kết một hợp đồng phần mềm với Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) để xây dựng một hệ thông tin quản lý các nghiệp vụ cho Ngân hàng, anh cũng nói rõ mục đích của cuộc họp là thống nhất nhóm làm việc chuẩn bị xây dựng hệ thống. Tôi được phân công vào nhóm lập trình, gồm Đình Anh, Việt Anh (K34), Hùng Sơn, Triều, Cù tuấn, Quang Anh và tôi; nhóm đó do anh Đình Anh phụ trách chung về công nghệ. Nhóm thiết kế bao gồm anh Thành Nam, anh Thái, anh Vinh và anh Đình Anh. Anh Nam cũng cho biết công cụ lập trình là MS Visual Basic 3.0 và sử dụng cơ sở dữ liệu FoxPro 2.0. Tôi ngồi nghe họp mà toát mồ hôi. Quả thực lúc đó cũng chẳng hình dung được hết các công việc mình sẽ phải làm, nhưng cứ nghĩ tới Visual Basic và Foxpro là đã đủ ốm rồi. Trong trường chúng tôi cũng đã được làm quen với lập trình. Nhưng cái lập trình đó là lập trình hệ thống theo kiểu Pascal, thêm vào một chút về C, chứ ngoài ra thì nào có biết gì khác nữa đâu. Đấy là chưa kể là còn phải hiểu nghiệp vụ ngân hàng về phần công việc mình sẽ phải làm đấy chứ!

Lúc đầu, tôi được phân công làm màn hình chung cho cả chương trình với nhiều menu bên trong. Mỗi lần gọi một chức năng trên menu thì sẽ gọi tới một chương trình.EXE khác như chương trình Giao dịch, Vấn tin tài khoản…Tôi đã tính là làm như vậy tôi chỉ cần đọc và nắm vững cách lập trình VB là có thể làm được. Nhưng sau đó, dường như cảm thấy công việc quá khó đối với tôi, anh Vinh quyết định chuyển tôi sang một việc “dễ thở” hơn, đó là lập trình một loạt các chức năng trong khối nghiệp vụ Kế toán của Ngân hàng. Anh đưa cho tôi một tập thiết kế chi tiết, bao gồm cấu trúc dữ liệu, màn hình nhập liệu và các hành thủ tục chính sẽ được gọi khi người dùng thực hiện các thao tác trên các màn hình này; anh dặn tôi phải hoàn thành chức năng đầu tiên là Giao dịch Kế toán trong vòng mười ngày. Lúc ấy tôi nhìn bộ hồ sơ mà mặt méo xẹo! Tôi không lo mình thiếu nhiệt tình, nhưng chỉ sợ mình không đủ sức học và tiếp thu mà làm chậm trễ mất tiến độ công việc thì hỏng bét. Lúc đó tôi cũng ý thức được ý nghĩa của sự tham gia của mình trong chương trình đầu tiên với công ty.

Thế là gác PASCAL, C với UNIX sang một bên, tôi bắt tay vào đọc VB 3.0. Lúc đó cả Giảng Võ chỉ có một bộ VB 3.0 duy nhất; nên nếu đã có người sử dụng rồi thì người khác phải lấyHelp ra đọc. Từ đây rôi cũng đã học được thêm một cách học trên Help, dễ dàng mà lại hiệu quả. Đồng thời Đình Anh cũng tiến hành Seminar cho anh em trong nhóm lập trình và toàn bộ ISC lúc bấy giờ về cách thức lập trình và toàn bộ ISC lúc bấ giờ về cách thức lập trình trên VB. Được dăm ba hôm, tôi bắt tay vào làm chương trình đầu tiên: Chức năng Giao dịch Kế toán. Cũng vẽ, cũng lắp ghép, cũng đặt phím bấm, đặt text box…nhưng sao cái màn hình của tôi nó xấu đến mức thê thảm! Tôi mà còn phải nghĩ là nếu Thanh toán viên mà nhìn thấy cái màn hình này thì chắc là họ không muốn sử dụng luôn! Hì hụi mất một ngày, tôi mói vẽ xong một cái màn hình giao dịch, mà có lẽ sau này khi đã quen việc tôi chỉ cần mất 30 phút là xong. Hôm đó là thứ bảy, cả ngày chỉ được mỗi một cái màn hình mà chẳng xuôi mắt tí nào cả, buồn hết chỗ nói. Chủ nhật hôm sau, bọn tôi lại lên công ty làm tiếp. Tình cờ hôm đó tôi vào mạng và đọc một đoạn source của anh Đình Anh là về đoạn chương trình phân quyền cho user: Màn hình của Đình Anh đẹp như của Windows xịn, tôi mê mẩn, quên luôn cả việc lập trình và ngồi say sưa nghiên cứu xem Đình Anh đã dùng cách gì mà tạo được màn hình chuẩn thế! Cuối cùng thì tôi cũng tìm ra được hai điểm chính: Thứ nhất là phải chuẩn hóa màn hình theo chuẩn của Windows về màu sắc, phông chữ, tương quan tỷ lệ giữa các đối tượng trên một màn hình; thứ hai, là phải sử dụng kỹ thuật làm giả 3D, tạo nên những odject có độ lồi lõm đầy ấn tượng. Các bạn sinh viên bây giờ dùng VB 5.0 có nhiều tiện lợi hơn chúng tôi ngày đó rất nhiều trong công việc xây dựng các màn hình giao diện. Để có được một object kiểu 3D, tôi phải tạo một Panel 3D chìm xuống, xác lập thuộc tính BevelOuter = [1 – Insert]; Autosize = 13; Autosize Child To Panel, rồi sau đó thả object mình định vẽ vào trong cái panel đó. Và thế là tôi đã dũng cảm bỏ đi màn hình đã xây dựng trong cả ngày hôm trước để tạo lại một màn hình mới, ưng ý hơn, và đẹp hơn rõ ràng. Lúc ngửng đầu lên thì đã hết buổi chiều rồi! Sau đó, anh Thái cũng thống nhất dùng mẫu giao diện 3D làm chuẩn chung cho tất cả các chức năng khác trong toàn bộ chương trình. Đến bây giờ tôi mới hiểu được xây dựng và chuẩn hóa màn hình giao diện cho các ứng dụng phần mềm là một công nghệ không đơn giản chút nào!

Giai đoạn tiếp theo là tiến hành coding cho màn hình đã vẽ xong. Tôi còn nhớ vấn đề phức tạp nhất trong việc lập trình cho màn hình Giao dịch khi đó là việc làm sao phải xử lý được việc quản lý một giao dịch nhiều Nợ/Có và các vấn đề liên quan. Thời gian thì đã gần hết mười ngày mà chương trình vẫn chưa xong, và thế là tôi bắt đầu nghỉ học tại trường để tập trung thời gian để làm nốt công việc. Cũng may cho tôi trong tài liệu thiết kế, anh Thái và anh Vinh đã ghi chú rất rõ các thao tác phải làm, thành thử tôi không phải mất nhiều thời gian nghiên cứu về nghiệp vụ để tìm được quy trình xử lý trong chương trình. Thời gian đó chúng tôi bị điểm danh ở trường rất gắp gao, song tôi cũng có một đội chiến hữu ở lớp sẵn sằng điểm danh hộ nên cũng không lo lắng lắm. Sau này khi ra trường, ngồi ngẫm lại mới thấy 3 năm học cuối ở trường đại học có lẽ tới phân nửa thời gian chúng tôi đã dành cho công việc ở FPT. Cuối cùng thì tôi cũng có được chương trình đầu tiên để chạy demo cho anh Thành Nam, anh Vinh và anh Thái xem. Tuy còn có những lỗi xử lý trong chương trình, nhưng về đại thể chương trình đã có thể thực hiện được các giao dịch Kế toán. Tôi thực sự vui sướng khi thấy kết quả của mười ngày liên tục làm việc của mình đã gần tới thành công. Tới bây giờ tôi vẫn không thể quên được mười ngày làm việc đầy khó khăn, nhưng cũng hết sức thú vị và đáng nhớ ấy. Có lẽ cái vật cản lớn nhất bao giờ cũng ở lần đầu tiên, nó hội tụ đủ thứ khó khăn. Nhưng khi đã quyết tâm và vượt qua được, thì các lần tiếp theo sẽ nhẹ nhàng và bớt vất vả đi rất nhiều.

Thời gian trôi đi, hè đã tới, chúng tôi kết thúc năm học thứ ba và chương trình INFOBANK (tên gọi của hệ thống tôi gọi ở trên đây) đã hoàn thiện được phần lớn các module, và cũng đã đến lúc triển khai chương trình cho BIDV. Nhưng không vì thế công việc của nhóm giảm bớt đi, chúng tôi vẫn phải làm việc chủ nhật, và làm muộn, nhiều hôm tới 9h, 10h tối. Tôi còn nhớ có hôm làm về muộn, anh Thành Nam, anh Thái rủ cả bọn ra ven hồ Giảng Võ ăn bánh ngọt và uống sữa. Có hôm chủ nhật trời mưa, anh Thái hì hục đội mưa đi mua bánh mì cho cả bọn ăn, ướt lướt thướt, nhưng thật là vui. Lúc ấy chúng tôi chỉ có một niềm đam mê duy nhất là lập trình. Có thể nói cỗ máy đã đạt được tốc độ vận hành tới mức tối đa. Nhiều hôm đi làm muộn về, chúng tôi phải đứng trên gác hai gọi bảo vệ mở cổng ầm lên, chỉ vì sợ mấy con chó hung dữ chạy lông nhông dưới sân tấn công (Mấy con chó này đã nổi tiếng trong FPT vì có con đã ngoạm NSND Khắc Thành tới hơn một lần!). Một kỷ niệm vừa buồn, vừa vui là việc chị Việt Anh (K34) bị mất cắp xe đạp, do chúng tôi về muộn, xe vẫn còn để ở trong, mà cửa nhà xe lại không khóa. Đang lúc sắp tốt nghiệp mà bị mất xe đạp, trông chị bần thần thật tội nghiệp. Hai hôm sau, anh Vinh đã đề nghị công ty xuất tiền mua cho chị một chiếc xe khác, thế là cả bọn lại được khao xe mới! Tôi tin rằng bây giờ dù đang công tác ở phòng Điện toán Ngân hàng Công thương, nhưng chị Việt Anh chắc vẫn còn nhớ rõ những ngày ấy.

Và còn nhiều, rất nhiều những kỉ niệm đáng nhớ khác mà tôi không có điều kiện để kể hết ra được…

Ba tháng hè chính là thời điểm chúng tôi triển khai chươn trình cho Ngân hàng Đầu tư. Tôi được anh Thái kéo theo đi triển khai cùng anh. Với những bước chập chững ban đầu trong giao tiếp với khách hàng, tôi đã được anh Thái chỉnh bảo dần dần trở thành đối tác quen thuộc đối với những phòng ban mà chúng tôi tới triển khai chương trình. Đi cùng anh Thái, tôi cũng học được nhiều đức tính tốt của anh trong công tác, trong cách tổ chức và thực hiện một dự án, trong quan hệ giao tiếp, thu phục khách hàng. Anh còn chỉ cho tôi các kinh nghiệm lập trình về cơ sở dữ liệu, bởi anh cũng đã có thời gian khá lâu làm việc trên lĩnh vực này. Mãi cho tới ngày hôm nay, sau ba bốn năm công tác, tôi đã trải qua một số dự án của phần mềm, từ vị trí của lập trình viên, người thiết kế, cho đến quản trị dự án, nhưng những kính nghiệm quý báu mà anh đã giảng dạy cho tôi từ những ngày đầu ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi, cũng như lòng biết ơn của tôi đối với anh không hề thay đổi theo năm tháng.

Tháng 9 năm ấy, chúng tôi giã từ căn cứ Giảng Võ oanh liệt một thời. ISC cũng được tách ra làm nhiều bộ phận khác, trong đó có hai bộ phận tin học lớn của FPT là FSS và FIS. FSS với thành phần chủ yếu là các lập trình viên của ISC tại Giảng Võ, dưới sự lãnh đạo của tướng Nguyễn Thành Nam vẫn tiếp tục trung thành với đường lối phát triển phần mềm, kéo quân về viện tư liệu phim Việt Nam, Thủ Lệ, Ngọc Khánh đồn trú. Ngoài ra một số lực lượng lớn các thành viên khác đã được tổ chức bổ sung vào, trong đó có K36 của chúng tôi đã có thêm 3 lập trình viên sáng giá, là Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đắc Việt Dũng và Phan Văn Hưng; những người mà sau này tên tuổi còn gắn liền với những sản phẩm phần mềm nổi tiếng của FSS và FPT. Tôi và Quang Anh, hai thành viên K36 đầu tiên ở FPT, từ nhóm lập trình BIDV hồi đó lại bước vào hai thử thách mới. Tôi bắt tay vào nghiên cứu triển khai chương trình SIBA cho Ngân hàng TECHCOMBANK, anh Quang Anh bắt tay vào xây dựng hệ thống DINATAX cho Thuế. Chúng tôi mỗi đứa theo một con đường khác nhau, nhưng vẫn cùng chung sức cho sự phát triển của FSS, FSOFT, của FPT. Và mỗi đứa vẫn đem trọn vẹn trong lòng mình những kỉ niệm ban đầu về chương trình phần mềm đầu tiên ấy.

Ý kiến

()