Chúng ta

Điện Biên Phủ trong tôi

Thứ tư, 7/5/2014 | 08:55 GMT+7

Với tôi, cũng như bao người Việt Nam khác, cái tên Điện Biên Phủ gần gũi biết bao nhiêu. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thế giới, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được làm nên bởi lòng yêu nước, sự đoàn kết và trí thông minh của cả một dân tộc.
> 'Mỗi người FPT hãy là một chiến sĩ Điện Biên'

Năm 1964, khi đang học lớp 1, tôi được vào sân vận động Hàng Đẫy (Hà Nội) để dự mít tinh nhân 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Hôm đó tôi được xem tái hiện trận chiến đấu cuối cùng của chiến dịch Điện Biên khi bộ đội ta xông vào hầm Đờ Cát và phất lá cờ Việt Nam trên nóc hầm.

a

Hầm Đờ Cát, Bộ chỉ huy của quân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vào một ngày cuối năm học lớp 10 (năm cuối của giáo dục phổ thông khi đó), tôi được gọi lên kiểm tra miệng môn sử về “Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và chiến thắng Điện Biên Phủ”. Do đã thuộc lòng diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ từ khi còn nhỏ nên tôi đã trả bài rất ngon lành, trích dẫn những tư liệu không chỉ có trong sách giáo khoa hay bài giảng của thầy dạy sử.

Đặc biệt hơn, ngày 7/5/1984, tròn 30 năm kể từ ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, khi đó tôi đang học nghiên cứu sinh tại Pháp. Vào chương trình thời sự hằng ngày lúc 20h, các đài truyền hình của Pháp đều mở đầu bằng tin “Cách đây 30 năm, Điện Biên Phủ đã thất thủ” và sau đó đều dành gần nửa thời lượng để đưa tin, bình luận về trận đánh nổi tiếng mà người Pháp đã thua trận. Qua đó, tôi biết hơn quan điểm của người Pháp, của các nhà sử học và sĩ quan Pháp về trận đánh này.

Đến năm nay 2014, kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi và vợ đã cố thu xếp thời gian để lên thăm mảnh đất thiêng liêng miền Tây Bắc ấy vào cuối tháng 4 vừa qua.

a

Thăm lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Sân bay là nơi đón khách du lịch đi bằng đường hàng không đến Điện Biên. Không còn vết tích gì của một sân bay thời chiến tranh xưa. Tại chiến dịch Điện Biên, quân ta đã cắt đứt đường lên xuống của sân bay Mường Thanh, buộc quân Pháp phải dùng thả dù để tiếp tế.

Đi cùng chuyến bay của chúng tôi là một đoàn cựu chiến binh Điện Biên Phủ quay lại thăm chiến trường xưa. Dù các cụ đều đã ngoài 90 tuổi nhưng tất cả rất hào hứng, phấn khởi khi được trở lại Điện Biên.

Sau 60 năm, nơi đây không còn rõ những di tích của trận chiến nổi tiếng thế giới, chỉ còn các điểm cao như đồi A1 còn giữ lại chứng tích chiến tranh năm xưa. Cầu Mường Thanh trở thành một nút giao thông quan trọng cùng chợ tấp nập. Hầm Đờ Cát bây giờ lọt vào giữa một khu đô thị tấp nập, phố xá đi qua ngay sát hầm. Một thành phố đã hình thành và phát triển ngay trên chiến trường xưa.

a

Ao bộc phá trên đồi A1.

Tôi bắt đầu cuộc thăm Điện Biên bằng lên Mường Phăng, nơi đóng đại bản doanh Bộ Chỉ huy chiến dịch. Nơi đây cách Điện Biên Phủ hơn 30 km, đi qua hồ Pá Khoang rất đẹp và là một điểm du lịch tiềm năng của thành phố miền Tây Bắc. Pá Khoang là hồ nhân tạo, được lực lượng thanh niên xung phong Tây Bắc xây dựng từ 1974-1979 nhằm phục vụ cho thủy điện và thủy nông của cánh đồng Mường Thanh.

Qua hồ Pá Khoang đi thêm hơn 10 km là đến cánh rừng Mường Phăng. Từ đường nhựa đi bộ hơn 1 km đường rừng là đến khu Sở chỉ huy chiến dịch. Lần lượt các lán trại (đã được dựng lại cho giống với nguyên gốc khi xưa) và các biển ghi danh các địa điểm lịch sử hiện ra trước khi đến được khu chính của sở chỉ huy. Có một con đường hầm 69 m nối nơi làm việc của Tổng tư lệnh chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng chiến dịch, còn lại đều là những lán trại nằm trên mặt đất.

a

Nhân dân trên đường vào thăm hầm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Những lán trại, hội trường của Sở chỉ huy được xây dựng đơn sơ hơn nhiều so với hầm boong-ke của phía Pháp. Cuộc chiến tranh nhân dân của người Việt Nam có những lợi thế hơn so với kẻ đi xâm lược. Núi rừng, sông nước là lợi thế của quân ta. Có ở khu Mường Phăng tôi mới thấm thía hơn câu thơ của Tố Hữu khi viết về những cánh rừng Việt Bắc trong thời chiến tranh chống Pháp: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Trên đường quay về Điện Biên Phủ chúng tôi còn được chiêm ngưỡng tượng đài kéo pháo của quân ta. Những khẩu pháo của Quân đội nhân dân Việt Nam đã nổi tiếng qua bài “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân, làm câm họng pháo binh Pháp, khiến quan năm Pháp Piroth, chỉ huy pháo binh tại Điện Biên Phủ, đã phải tự tử sau trận hai bên đấu pháo vào ngày quân ta mở đầu chiến dịch Điện Biên, đánh chiếm cứ điểm Him Lam ngày 13/3/1954.

Về Điện Biên Phủ, chúng tôi đến hầm Đờ Cát, Bộ chỉ huy của quân Pháp trong chiến dịch. Khu hầm nằm ngay trung tâm thành phố, sát các phố xá đông đúc, đã được che bằng một mái tôn nhựa lớn để tránh hư hỏng bởi mưa nắng. Các ụ cát đã được làm giả bằng bê tông. Vòm sắt cong nổi lên trên vẫn còn nguyên, cùng toàn bộ phận hầm được đào sâu và khá rộng nằm dưới đất. Đường hầm, phòng làm việc rộng hơn nhiều so với đường hầm và lán làm việc của Sở chỉ huy của quân ta. Tất cả toát lên một sự chắc chắn, bề thế, nhưng những thứ đó đã không giúp cho quân Pháp thắng trận tại Điện Biên Phủ. Nơi đây đã ghi nhận một trong những chiến công hiển hách nhất của Việt Nam trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nơi quân ta đã bắt sống viên tướng của một quân đội chính quy viễn chinh bậc nhất thế giới khi đó.

Khi ghé thăm Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên, được xây ngay cạnh đồi Độc Lập khi xưa, tôi thấy có rất nhiều vòng hoa viếng các anh hùng, liệt sĩ của nhiều tổ chức, cơ quan trong cả nước gửi đến. Người Việt Nam luôn thể hiện lòng biết ơn với những công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ đã không tiếc xương máu vì nền độc lập của dân tộc.

a

Nghĩa trang Liệt sĩ Điện Biên luôn có nhiều vòng hoa kính viếng các anh hùng, liệt sĩ của nhiều tổ chức, cơ quan trong cả nước.

Cuối cùng chúng tôi lên thăm đồi A1, nơi đã diễn ra trận đánh ác liệt nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là nơi án ngữ cuối cùng trong cụm các cứ điểm phía đông của trung tâm Mường Thanh. Với kiến trúc hầm ngầm kiên cố, quân Pháp đã kháng cự lại sức tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam trong 39 ngày (từ 30/3 đến sáng sớm 7/5/1954). Cứ điểm A1 chỉ bị hạ khi quân ta đào một đường hầm dưới hầm của quân Pháp và đặt khối thuốc nổ 960 kg, và cho nổ tung hầm ngầm này vào 20h ngày 6/3/1954. Tiếng nổ của khối bộc phá khổng lồ này cũng là hiệu lệnh tổng tiến công đợt 3 vào trung tâm Mường Thanh. 4h30 sáng 7/5, quân ta đã chiếm được hoàn toàn đồi A1, sau đó lần lượt hạ các điểm chốt khác, vượt qua cầu Mường Thanh và bắt sống tướng Đờ Cát vào lúc 17h30 ngày 7/5/1954. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.

Chiến thắng Điện Biên Phủ có tầm vóc thế giới. Một đội quân chính quy, dày dạn chinh chiến qua bao nhiêu thế kỷ, chinh phục biết bao nhiêu thuộc địa đã phải chịu thua quân đội nhân dân non trẻ chưa đến 10 năm thành lập của một nước thuộc địa nghèo nàn và lạc hậu về kinh tế. Nơi đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh và hiện đại của thế giới lúc đó, tập trung hơn 16.200 người (gồm 16 tiểu đoàn quân Pháp và nhiều đại đội khác), cùng biết bao xe tăng, đại bác và máy bay do Mỹ viện trợ. Sau chiến thắng Điện Biên, có 22 nước thuộc địa đã vùng lên đấu tranh giành độc lập từ tay các đế quốc, trong đó rất nhiều nước là thuộc địa của Pháp. Đến năm 1967, Pháp đã phải trao trả độc lập cho tất cả thuộc địa của mình, chấm dứt hơn 400 năm chủ nghĩa đế quốc kiểu cũ.

Nên nhớ rằng trong chiến tranh chống Mỹ, chưa có một tiểu đoàn nào của quân Mỹ bị tiêu diệt. Quân đội ta chỉ tiêu diệt đến cấp đại đội của quân Mỹ. Qua đó, để thấy sự vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ của Quân đội nhân dân Việt Nam, chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được làm nên bởi lòng yêu nước, sự đoàn kết và trí thông minh của một dân tộc.

Bùi Quang Ngọc

 

Ý kiến

()