Chúng ta

Trương Gia Bình và công cuộc kiến tạo nền công nghiệp phần mềm VN (tiếp)

Thứ hai, 6/1/2014 | 17:30 GMT+7

Vào những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới, ông Bình quyết định cử Henry Hùng và Hồng Sơn sang mở văn phòng tại thung lũng Silicon. Hai ông này có nhiệm vụ đem cờ Việt Nam và cờ FPT cắm trên đất Mỹ. Sự kiện này đã làm chấn động dư luận trong cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới.
> Trương Gia Bình và công cuộc kiến tạo nền công nghiệp phần mềm VN

(Tiếp theo và hết)

Ngày 13/6/1999, một bộ phận tinh nhuệ từ Xí nghiệp Giải pháp Phần mềm FSS được tách ra thành một FSU (FPT Strategic Unit), lãnh ấn tiên phong thực hiện gia công phần mềm đầu tiên có tên là Life-Serve, một phần mềm bảo hiểm nhân thọ của Công ty Winsoft.

Các lãnh đạo FPT tiên phong đi mở cõi. Ảnh: C.T.

Các lãnh đạo FPT tiên phong đi mở cõi. Ảnh: C.T.

Để động viên cán bộ của mình, ông Bình đã gọi họ là những chiến sĩ trên tiền tuyến và cam kết là những người còn lại - hậu phương lớn sẽ làm tất cả những gì cần làm để tạo điều kiện cho tiền tuyến chiến thắng. Ông cũng phong cho hai đồng giám đốc của FSU những chức vụ còn to hơn cả chính ông: Henry Hùng làm Chinh Tây đại nguyên soái, Nguyễn Thành Nam làm Bình Tây đại nguyên soái. Nhưng ông không phải là người dễ dãi. Ông nói với các nguyên soái của mình: "Các ngươi chỉ có một quyền duy nhất là chiến thắng".

Cuối tháng 6/1999, Trương Gia Bình cùng với Henry Hùng làm chuyến khảo sát thị trường Mỹ. Các ông đã đến thung lũng Silicon và gặp gỡ rất nhiều công ty tin học ở đây. Sau đó tại Seatlle, hai ông đã có buổi tiếp xúc với Phó Chủ tịch Microsoft cùng đại diện của nhiều công ty khác. Sau Seatlle, hai ông đến Dallas và gặp gỡ 15 công ty phần mềm lớn nhỏ. Chuyến đi cho ông Bình thấy tiềm năng vô hạn của thị trường Mỹ và trong đầu ông ý tưởng mở văn phòng đại diện tại Mỹ đã chín muồi. Nói về chuyến đi, ông Bình kết luận: Vấn đề quan trọng bây giờ là phải nhanh chóng tổ chức lực lượng.

Lúc này lực lượng làm phần mềm của FPT chỉ khoảng 70 người, trong đó số đang làm các hợp đồng nội địa khoảng 40 người. Cần phải tuyển thêm rất nhiều. Nhìn số lượng sinh viên các khoa CNTT tốt nghiệp hằng năm, ông Bình thấy yên tâm. Nhưng thực tế không phải vậy. Theo tiêu chuẩn tối thiểu mà Nguyễn Thành Nam đề ra cho lập trình viên như Toefl 500, biết C++, Java, VB, DBMS..., hầu hết các ứng viên không đáp ứng được. Mặc dù họ rất thông minh, biết nhiều, nhưng tình trạng chung là “cái cần thì không biết”. Vấn đề ở chỗ các khoa Công nghệ thông tin ở Việt Nam không đặt mục tiêu là đào tạo lập trình viên.

Ông Bình suy nghĩ nhiều ngày về vấn đề này và đi đến kết luận, Việt Nam cần thiết phải có các tổ chức đào tạo chuyên nghiệp quốc tế mới có thể đào tạo các lập trình viên đáp ứng các tiêu chuẩn của ngành công nghiệp phần mềm. Theo gương Đường Tam Tạng, ông cùng Nguyễn Thành Nam làm một chuyến du hành sang Ấn Độ với mục tiêu tìm lời giải cho bài toán nhân lực. Tại đây, ông đã tiếp xúc với các công ty Tata, Aptech, NIIT, Inforsys... Thành công của những công ty này đã khiến ông sửng sốt. Chính những người Ấn tiên phong này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách và tâm hồn ông, họ đã thổi bùng ước mơ lay lắt của ông thành một đám cháy khổng lồ.

Giữa tháng 9/1999, FPT khai trương hai trung tâm đào tạo lập trình viên quốc tế FPT Aptech. Aptech là công ty đào tạo hàng đầu của Ấn Độ, có hơn 1.000 trung tâm đào tạo trong nước và hơn 200 trung tâm đào tạo ở 30 nước khác trên thế giới. Điểm khác biệt lớn nhất của Aptech so với các khoa Công nghệ thông tin Việt Nam là chương trình đào tạo và công nghệ đào tạo đều xuất phát từ yêu cầu thực tế của ngành công nghiệp phần mềm. Đặc biệt, mục tiêu của Aptech rất rõ ràng: Đào tạo lập trình viên chuyên nghiệp. “Với chương trình 2 năm, các sinh viên tốt nghiệp Aptech sẽ có kiến thức và kỹ năng phù hợp hơn các cử nhân tin học của các khoa Công nghệ thông tin học chương trình 4 năm” - ông Bình tuyên bố với báo chí trong lễ khai trương Trung tâm Aptech tại TP HCM. Bắt đầu từ năm 2003, mỗi năm, Aptech sẽ cung cấp cho FPT 1.000 lập trình viên chuyên nghiệp. Ông Bình đã có thể tạm yên tâm về bài toán nhân lực để tập trung thời gian giải quyết những vấn đề khác.

Cuối năm 1999, ông Bình quyết định mở chi nhánh tại Bangalore. Khúc Trung Kiên được ông Bình phong làm "Đại tướng" và chiến trường Ấn Độ được gọi là chiến trường B, bí danh của chiến trường ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Trong chiếu chỉ có đoạn: “Nay quyết định mở mặt trận phía Tây trên đất Ấn, lập đàn phong tướng, phong thiếu tá Khúc Trung Kiên lên chức Đại tướng FPT, tổng chỉ huy phương diện quân Ấn Độ, lập tức lên đường viễn chinh, giành thắng lợi về cho công ty”.

Trả lời các câu hỏi của báo chí về mục tiêu của chi nhánh Ấn Độ, ông Kiên khẳng định, FPT India sẽ là cầu kết nối giữa lực lượng sản xuất phần mềm trong nước với các nền công nghiệp phần mềm tiên tiến trên thế giới. Việc kết nối này sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng cập nhật được những công nghệ mới nhất, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý của các tập đoàn hàng đầu trên thế giới và chuyên gia công nghệ cao cấp để chuyển giao và áp dụng vào các dự án của Việt Nam cũng như xuất khẩu.

Vì mục tiêu của FPT India đặt ra quá chung chung nên tính thuyết phục không cao. Quyết định thành lập chi nhánh FPT tại Ấn Độ đã gây tranh cãi nhiều ngày trong hàng ngũ cán bộ tham mưu, nhưng ông Bình thấy không cần phải giải thích hay đính chính. Một số người có tính hài hước cho rằng, không có chi nhánh nước ngoài làm sao FPT có thể trở thành công ty quốc tế được.

Sự việc này chứng tỏ tầm nhìn của ông Bình cao hơn hẳn mọi người và đã vượt qua giới hạn thông thường của một giám đốc công ty.

Trên thực tế, chi nhánh Ấn Độ không mang lại một lợi nhuận hay triển vọng lợi nhuận nào cả. Nhưng nó có một sứ mạng chính trị to lớn mà chỉ những người có tầm nhìn bao quát mới thấy hết được. Ông Bình nhận thấy một FPT đơn độc sẽ có rất ít cơ hội thành công. Ông cần sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam. Ông mơ ước viễn cảnh “nhà nhà làm phần mềm” sẽ trở thành hiện thực. Bản thân ông cũng bị bất ngờ khi thăm quan thung lũng phần mềm Bangalore, Ấn Độ. Ông muốn các nhà lãnh đạo Việt Nam được tận mắt chứng kiến những gì đã làm ông sửng sốt ở đây. Việc một công ty Việt Nam có chi nhánh ở thung lũng phần mềm nổi tiếng nhất châu Á là sự kiện có sức thu hút đặc biệt và trên thực tế nó đã lôi kéo được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Sau chuyến công tác của Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, các đoàn công tác của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã lần lượt đến thung lũng phần mềm Bangalore. “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, những chuyến đi này đã ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách của Nhà nước đối với định hướng chiến lược xuất khẩu phần mềm một năm sau đó.

Vào những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới, ông Bình đã quyết định cử Henry Hùng và Hồng Sơn sang mở văn phòng tại thung lũng Silicon. Hai ông này có nhiệm vụ đem cờ Việt Nam và cờ FPT cắm trên đất Mỹ. Sự kiện này đã làm chấn động dư luận trong cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới. Việt Kiều ở Mỹ tức tối, “chúng nó không cần vượt biên mà cũng sang được đây”. Việt kiều Anh-Pháp thì tò mò “không hiểu chúng nó sang Mỹ làm gì”? Người Việt trong nước thì khâm phục. Dân FPT đi đâu cũng bị hỏi “chúng mày sang Mỹ làm gì đấy?” và câu trả lời bao giờ cũng là “đầu tư chứ còn làm gì nữa”, “tại sao lại phải đầu tư bên đó?”, “À, môi trường đầu tư ở đó an toàn hơn ở châu Âu”.

Ông Bình đặt rất nhiều kỳ vọng vào Henry Hùng. Theo kế hoạch, trong ba tháng đầu, ông Hùng phải đưa văn phòng Silicon vào hoạt động ổn định, sau đó sẽ bàn giao cho ông Sơn và đi mở văn phòng mới. Trong 2 năm, FPT sẽ mở thêm khoảng 15 văn phòng ở Bắc Mỹ. Mỗi văn phòng có trách nhiệm ký các hợp đồng trị giá ít nhất là 400.000 USD. Như vậy, 15 văn phòng sẽ cung cấp các hợp đồng cho Việt Nam với tổng trị giá khoảng 6 triệu USD vào năm 2001. Bị thôi miên bởi ý chí của ông Bình, Henry Hùng và Hồng Sơn lên đường sang Mỹ với một nỗi lo canh cánh, không biết mình kiếm được nhiều hợp đồng quá thì ở nhà có chuẩn bị đủ người thực hiện hay không.

Ông Trương Gia Bình kỳ vọng vào tương lai toàn cầu hóa của tập đoàn. Ảnh: C.T.

Ông Trương Gia Bình kỳ vọng vào tương lai toàn cầu hóa của tập đoàn. Ảnh: C.T.

Lúc này, FPT đã cơ bản triển khai xong về mặt tổ chức cho hướng xuất khẩu phần mềm. Tổng hành dinh của FPT Software (viết tắt là FSoft) nằm ở Hà Nội. Tại đây có FSU1 do Nguyễn Thành Nam trực tiếp phụ trách, FSU3 do Bùi Quang Ngọc chỉ huy. Trung tâm đào tạo Aptech được giao cho Nguyễn Khắc Thành, thường gọi là nghệ sĩ nhân dân, mặc dù chuyên môn của ông là Phó tiến sĩ toán lý. Tại TP HCM, trung tâm phần mềm được đổi tên thành FSoft HCM do Lê Trường Tùng và Nguyễn Quốc Hùng phụ trách. Trung tâm đào tạo Aptech do ông Tùng kiêm nhiệm. Công ty có chi nhánh quốc tế tại Bangalore và văn phòng đại diện tại Silicon Valey.

Kết thúc năm 2000, ông Bình nhìn lại những việc đã làm tuy khá nhiều nhưng vẫn còn quá chậm. Ông tâm sự với các cộng sự rằng quỹ thời gian của ông không còn nhiều, nếu không hết sức khẩn trương thì sợ già mất. Hơn nữa, cơ hội cũng không đứng yên chờ ai. Sau một năm quyết tâm làm xuất khẩu phần mềm, chiến công mà FPT thu được mới chỉ là Nà Ngần, Phay Khắt. Không có cứ điểm Điện Biên Phủ, cũng không có tổng tiến công vào Sài Gòn...

Tại Hội nghị tổng kết năm 2000 ở Đại Lải, ông Bình quyết định phát động chiến tranh trong toàn công ty. Ông nói, người Việt Nam là thái âm, trong thời bình, những biểu hiện của thái âm là sự trì trệ, là bệnh hoạn. Chỉ khi đặt trong hoàn cảnh chiến tranh, nước sôi lửa bỏng, sự trì trệ đó mới mất đi và những ưu điểm của người thái âm mới có cơ hội thể hiện rõ. Ông Bình cũng trình bày rõ ràng nội dung của cuộc chiến tranh để toàn dân thảo luận. Mục tiêu của cuộc chiến là 528; thời hạn của cuộc chiến là từ 5-7 năm; phạm vi của cuộc chiến là toàn cầu; bản chất của cuộc chiến là chiến tranh nhân dân; tổ chức của quân đội là fractal; hậu phương là các bộ phận đang kiếm ra tiền; tiền tuyến là nơi tiêu tiền; trinh sát là văn phòng đại diện tại Silicon Valey... Hùng Henry phải cung phụng Mỹ để lấy hợp đồng. Khúc Trung Kiên phải tập ăn cà ri để hòa mình với dân Ấn. Trong nước, mỗi người phải làm việc bằng hai. Các tướng lĩnh phải thắt lưng buộc bụng. Gian khổ không chỉ ngày một ngày hai. Nhưng khi thành công thì tất cả đều thành tỷ phú, bét nhất thì cũng triệu phú...

Tinh thần chiến tranh được phát triển sâu rộng đến từng bộ phận, từng chi đoàn. Các kỹ sư phần mềm được phong quân hàm cấp úy. Binh pháp Tôn Tử được mang ra thảo luận. Ông Bình mời cả vị tướng có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh nhân dân như tướng Hoàng Đan đến nói chuyện. Nhân viên FPT gặp nhau toàn nói chuyện kỳ chính, chính kỳ, fractal, 528... Để cho dễ nhớ, ông Bình đã gói gọn mục tiêu của công ty vào 3 chữ số 528. Số 5 chỉ 5.000 lập trình viên chuyên nghiệp của FPT vào năm 2005. Số 2 chỉ 200 triệu doanh số phần mềm xuất khẩu cũng vào năm đó. Số 8 chỉ giá trị của công ty tại thị trường chứng khoán Nasdaq là 8 tỷ USD. Toàn thể nhân viên FPT hừng hực khí thế chiến tranh. Trở thành công ty bạc tỷ trong vòng mấy năm là một chuyện phi thường và người FPT đang quyết tâm làm chuyện phi thường.

Những vị lãnh đạo Nhà nước Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến công nghiệp phần mềm, nhưng sự quan tâm đó vào đầu năm 2000 vẫn chưa được thể hiện bằng hành động cụ thể. Chưa có nghị quyết của Chính phủ về ngành công nghiệp này. Chưa có chính sách ưu đãi của Nhà nước cho các công ty phần mềm. Nhà nước cũng chưa quyết tâm đầu tư. Ông Bình hiểu rằng, cần phải tiếp tục tác động.

Cuối tháng 3/2000, một phái đoàn do công ty FPT phối hợp với Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa và VTV đã tiến hành khảo sát ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ. Mục tiêu của chuyến đi này là học hỏi kinh nghiệm Ấn Độ trong lĩnh vực xuất khẩu phần mềm, để tiến hành tuyên truyền sâu rộng cho việc xây dựng và phát triển phần mềm xuất khẩu Việt Nam. Ông Bình đã lên Đài truyền hình Việt Nam và trước 80 triệu đồng bào cả nước kêu gọi “dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn” cũng phải xây dựng bằng được ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam hướng tới xuất khẩu. Không chỉ tuyên truyền trên truyền hình, ông còn đi đến Đà Nẵng, Cần Thơ giải thích và vận động những nhà lãnh đạo tại các tỉnh này ủng hộ xây dựng các công viên phần mềm địa phương.

Chiến dịch tuyên truyền sâu rộng với sự tham gia của tất cả phương tiện thông tin đại chúng đã mang lại kết quả. Ai cũng nói về phần mềm. Chính phủ bàn về phần mềm. Tỉnh, thành phố, quận huyện cũng bàn về phần mềm. Hội thảo về “xuất khẩu phần mềm như một cơ hội thiên niên kỷ” đã diễn ra khắp nơi. Quả thật là Việt Nam đang nằm trong tốp nghèo nhất thế giới và cơ hội bứt ra khỏi tốp này không phải là nhiều. Khẩu hiệu “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” vẫn tiếp tục chỉ là khẩu hiệu trong nhiều năm qua. Không có nhiều lựa chọn cho Việt Nam. Vì thế, dù cách thức đặt vấn đề có khác nhau, nhưng hầu như các hội thảo trong thời gian này đều đi đến một kết luận giống nhau: Công nghiệp phần mềm là lối thoát duy nhất của Việt Nam. Từ vấn đề kinh tế, xuất khẩu phần mềm đã trở thành vấn đề chính trị, vì nó không chỉ mang về cho đất nước một ít ngoại tệ mà là mở ra cho đất nước một cơ hội phát triển.

Ngày 5/6/2000, Chính phủ đã ban hành nghị quyết về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005 với mục tiêu: 50.000 lập trình viên, 500 triệu USD phần mềm xuất khẩu vào năm 2005. Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa 8 đã ra Chỉ thị 58-CT/TW, trong đó nhấn mạnh vai trò của công nghệ thông tin đối với sự phát triển đất nước.

Tiếp theo hai văn kiện quan trọng này là việc triển khai hàng loạt các chính sách ưu đãi dành cho các công ty phần mềm như: Miễn thuế 4 năm cho các công ty phần mềm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, không áp dụng VAT với các sản phẩm phần mềm, thuế xuất nhập khẩu bằng không... Đặc biệt, các lập trình viên Việt Nam được tôn vinh, khi mức lương bắt đầu phải nộp thuế thu nhập nâng từ 2 triệu lên 8 triệu đồng. Các công ty phần mềm được sử dụng Internet với tất cả cổng dịch vụ không bị kiểm soát qua firewall... Nhà nước đầu tư vào các khu công viên phần mềm như Quang Trung, Hòa Lạc...

Những người làm phần mềm hân hoan thụ hưởng các chính sách mới này, nhưng không phải tất cả trong số họ đều biết đến công lao của ông Bình trong nỗ lực tác động hình thành chính sách. Nếu trong tương lai, chương trình xây dựng ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam hướng tới xuất khẩu không thành công, chắc chắn ông Bình sẽ được nêu tên đầu tiên trong bảng tội danh. Ông Bình biết thế nhưng không buồn vì nếu thành công, ông sẽ là người Việt Nam đầu tiên trở thành tỷ phú đôla Mỹ.

Chủ tịch HĐQT FPT Trương Gia Bình là người tiên phong thúc đẩy phát triển ngành Công nghiệp phần mềm ở Việt Nam. Ảnh: C.T.

Chủ tịch HĐQT FPT Trương Gia Bình là người có vai trò thúc đẩy phát triển ngành Công nghiệp Phần mềm ở Việt Nam. Ảnh: C.T.

Cho đến thời điểm tháng 9/2001, FPT cũng đã có nhiều thay đổi. Số lượng lập trình viên đã lên đến gần 400 người. Nhiều mô hình sản xuất đã được triển khai, trong đó thành công nhất là mô hình OSDC. Ông Bình đã quốc tế hóa công ty bằng cách thuê một ông Mỹ da trắng làm giám đốc tiếp thị. Các cuộc tiếp xúc với những người khổng lồ như IBM, Compaq, HP... mang lại nhiều hứa hẹn to lớn nhưng còn khá bất định. Phần mềm xuất khẩu của FPT đã bắt đầu có lãi, tuy nhiên những chuyện phi thường thì chưa xảy ra.

Vào thời điểm tác giả viết bài này, cao trào xuất khẩu phần mềm có vẻ như lắng xuống. Những thành công của FPT ở các lĩnh vực khác càng làm cho Kỳ - Chính bị lẫn lộn. Phần mềm nội địa sau nhiều năm khó khăn bỗng nhiên trở mình trỗi dậy thành những hợp đồng khổng lồ. Hai năm trước đây, Nguyễn Thành Nam nói rằng, để đẩy mạnh xuất khẩu, chúng ta phải chấp nhận hy sinh thị trường nội địa. Sau khi Đỗ Cao Bảo ký được hợp đồng phần mềm với Điện lực thì một người cố chấp hơn ông Nam cũng phải thay đổi chính kiến.

Nhưng nếu như không còn ai tin vào tương lai của xuất khẩu phần mềm thì vẫn còn một người lòng tin không hề thay đổi. Đó chính là Trương Gia Bình. Những người gần gũi ông nói rằng, trong hoàn cảnh thuận lợi, vai trò của ông rất mờ nhạt, nhưng trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ông luôn toả sáng. Tư tưởng Thác nước và Cầu vượt của ông chưa được mọi người chia sẻ, nhưng ông sẽ thuyết phục được họ không sớm thì muộn. Dòng thác ông nói tới là dòng thác công nghệ và đội quân làm phần mềm chính là những cái cầu vượt mà Việt Nam phải cần tới, để không bị mặc kẹt trong tốp các dân tộc đau khổ nhất thế giới.

Ông Bình và các đồng sự của mình đang trên đường đến với... những giấc mơ, giấc mơ về ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Mong sao cho những giấc mơ tươi đẹp này sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai không xa.

Phần 1

Hoàng Minh Châu

(Theo Sử ký FPT 13 năm)

Ý kiến

()