Chúng ta

Việt Nam - điển hình thành công trong lĩnh vực CNTT-VT

Thứ sáu, 23/1/2015 | 16:31 GMT+7

Ngành CNTT-VT của Việt Nam đạt mức tăng trưởng đáng kể chỉ trong vòng 6-7 năm. Thu nhập trong lĩnh vực phần mềm tăng 10 lần từ 250 triệu USD lên 2,68 tỷ USD trong khi thu nhập trong lĩnh vực phần cứng tăng 24 lần từ 1,6 tỷ USD lên 37 tỷ USD.

Ông Abdullah H. Kafi, Chủ tịch Tổ chức Công nghiệp Điện toán châu Á - châu Đại Dương  (ASOCIO) đã viết bài đăng trên tờ Kaler Kanth, một trong những tờ báo lớn nhất tại Bangladesh, ca ngợi sự thành công của Việt Nam trong lĩnh vực ICT.

Mỗi năm Liên minh Viễn thông Quốc (ITU) đều công bố báo cáo xếp hạng Chỉ số phát triển ICT toàn cầu (ICT Development Index) dựa trên những tiến bộ của ngành công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-VT) của mỗi nước. Năm 2013, có 161 quốc gia nằm trong danh sách này, trong đó Việt Nam xếp thứ thứ 81 trên thế giới, thứ 4 tại Đông Nam Á, và đứng thứ 12/27 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo báo cáo của ITU năm 2014, Bangladesh xếp thứ 145. Điều thú vị là năm 1975 khi độc lập, Việt Nam là một trong những nước kém phát triển nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người chỉ 40 USD so với mức 80 USD của Bangladesh.

Nhiều thứ đã thay đổi đáng kể trong vòng 35 năm. CNTT-VT có những đóng góp quan trọng vào sự thay đổi này, 10% GDP của Việt Nam đến từ CNTT. Quy mô thị trường trong nước là 40 tỷ USD với 1 triệu nhân công. Năm 2014, doanh thu từ xuất khẩu CNTT-VT của Việt Nam là 13 tỷ USD. Năm 2013, ngành công nghiệp điện thoại di động của Việt Nam đạt 13 tỷ USD doanh thu. Quốc gia này hiện là một trong những nhà cung cấp nội dung số và phần mềm hàng đầu trên thế giới. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Thương mại quốc tế, hàng điện tử xuất khẩu củaViệt Nam năm 2013 đạt giá trị 34,4 tỷ USD.

Kafi-JPG-9226-1421986824.jpg

Ông Abdullah H. Kafi gặp gỡ TGĐ FPT Bùi Quang Ngọc bên lề Diễn đàn Cấp cao CNTT châu Á - châu Đại Dương ASOCIO ICT Summit 2014. ẢnhThanh Nga.

Chính phủ cũng tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng CNTT-VT. Thủ đô Hà Nội có hai sân bay, một trong số đó đạt tiêu chuẩn quốc tế với đội ngũ nhân viên hiếu khách và có năng lực. Chỉ trong vòng một năm, 12 khách sạn quốc tế 5 sao và nhiều trung tâm hội nghị đẳng cấp quốc tế đã được xây dựng. Tất cả đã biến Hà Nội trở thành điểm dừng chân tuyệt vời cho người nước ngoài.

Chính sách và sáng kiến của chính phủ Việt Nam đã góp phần làm nên tiến bộ này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sau khi nhận chức vào năm 2006, đã quyết định đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế CNTT-VT vào 2020. Để theo đuổi mục tiêu, ông ban hành các chính sách, tiến hành nhiều dự án, khoản đầu tư cần thiết và đạt được hiệu quả rõ rệt. Trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã trở thành một trong những nước CNTT-VT hàng đầu châu Á. Trong giai đoạn 2010-2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đầu tư 8,5 tỷ USD, trong đó phần lớn được chi cho sản xuất phần mềm, giáo dục CNTT-VT, thúc đẩy và phát triển nguồn nhân lực. Nhờ khoản đầu tư này, tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành CNTT-VT của Việt Nam đạt 25-30%.

Các biện pháp của chính phủ bao gồm ban hành nghị định đặc biệt hỗ trợ công nghiệp phần mềm và nội dung năm 2007; xây dựng các chính sách phát triển ngành CNTT-VT giai đoạn 2007-2010; cấp phép cho dịch vụ chữ ký số năm 2009; triển khai Kế hoạch tổng thể đầu tiên về CNTT-VT năm 2010; hình thành tầm nhìn mới vào năm 2012, trong đó nêu rõ CNTT-VT là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng quốc gia; và thành lập Ủy ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ) vào năm 2014. Từ năm 2007, chính phủ cũng đã nhấn mạn đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, và kết quả là Việt Nam đã ra khỏi danh sách các nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất.

Các biện pháp này đã giúp ngành CNTT-VT của Việt Nam đạt mức tăng trưởng đáng kể chỉ trong vòng 6-7 năm. Thu nhập trong lĩnh vực phần mềm tăng 10 lần từ 250 triệu USD lên 2,68 tỷ USD trong khi thu nhập trong lĩnh vực phần cứng tăng 24 lần từ 1,6 tỷ USD lên 37 tỷ USD. Hãng tư vấn quản lý danh tiếng AT Kearney đã xếp Việt Nam vào danh sách những điểm đến gia công phần mềm hàng đầu. Quốc gia này xếp hạng 26 năm 2005 và hạng 8 năm 2011. Bạn có thể dễ dàng nhận thấy sự khác biệt. CNTT-VT là ngành rất thịnh vượng ở Việt Nam. Mỗi năm, có thểm 50.000 lao động mới trong lĩnh vực này.

Những tiến bộ này khiến các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan tâm đến Việt Nam. Nhiều công ty Nhật Bản đã đầu tư vào lĩnh vực này. Đối với họ, Việt Nam là một lựa chọn thay thế phù hợp cho Trung Quốc. 15 năm trước, Canon, thương hiệu điện tử hàng đầu Nhật Bản, đã mở nhà máy sản xuất đầu tiên tại Việt Nam. Hiện nay, con số này đã tăng lên 4, trong đó nhà máy tại Khu công nghiệp Thăng Long có 23.000 nhân công với 90% là nữ giới. Nhà máy này có công xuất 7,3 triệu máy in mỗi năm.

Tại diễn đàn cấp cao CNTT-VT châu Á - châu Đại Dương (ASOCIO ICT Summit 2014), đoàn đại biểu 200 người gồm đại diện của các doanh nghiệp lớn của Nhật Bản như Fujitsu đã đến Hà Nội để tìm hiểu cơ hội đầu tư ở quốc gia này. Thủ tướng và các quan chức chính phủ cấp cao khác của Việt Nam đã rất nỗ lực để thu hút đầu tư nước ngoài. Tại ASOCIO ICT Summit 2014, tôi đã tận mắt chứng kiến đóng góp của họ vào sự phát triển của ngành CNTT-VT. Thủ tướng chính phủ trực tiếp gặp gỡ chúng tôi trong khi Phó Thủ tướng, ông Vũ Đức Đam tham dự lễ khai mạc. Suốt buổi họp, họ nhấn mạnh đến việc đầu tư trực tiếp nước ngoài và tỏ ý sẵn sàng làm mọi thứ có thể.

VINASA.jpg

Lễ ký MOU giữa Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) và Hiệp hội Máy tính Bangladesh diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn Cấp cao CNTT Vietnam - ASOCIO ICT Summit 2014 tại Hà Nội. Ảnh: Thanh Nga.

Mặc dù chúng ta nói rất nhiều về CNTT-VT nhưng có một thực tế khắc nghiệt là ngành CNTT-VT của chúng ta thậm chí không thể so sánh với Sri Lanka hay Ấn Độ, hai nước có nhiều điểm tương đồng với chúng ta. Cả Việt Nam và Bangladesh đều tổn thất rất lớn do chiến tranh trong những năm 1970. Nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của người dân ở cả hai nước. Sau nông nghiệp, ngành công nghiệp may là nguồn thu ngoại tệ lớn cho Bangladesh và điều này cũng đúng đối với Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực phát triển ngành CNTT-VT rộng khắp cả nước để ngành này đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Chúng ta học hỏi được rất nhiều từ thành công của Việt Nam.

Các nhà hoạch định chính sách của chúng ta hứa hẹn rất nhiều, nhưng chỉ số ít được thực hiện. Thói quen này nên thay đổi, họ nên tận lực làm việc. Thực tế là chúng ta có nhiều vấn đề và không thể giải quyết cùng một lúc. Mọi chuyện có lẽ sẽ tốt hơn nếu không xảy ra các cuộc đình công và bạo lực chính trị. Dù điều này là không thể, thì chúng ta cũng có thể đảm bảo phương tiện chở người nước ngoài không bị hư hỏng trong quá trình đình công hoặc biểu tính chính trị. Nepal xảy ra đình công nhiều hơn Bangladesh nhưng xe chở người nước ngoài vẫn an toàn. Vì vậy, ngành du lịch của họ vẫn phát triển mạnh ngay cả khi có bất ổn chính trị và chiến tranh dân sự. Để thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp may mặc và CNTT-VT, đầu tiên chúng ta phải đảm bảo an toàn và an ninh cho nước ngoài đến thăm Bangladesh.

Thứ hai, chúng ta phải cải thiện cơ sở hạ tầng. Bangladesh nên xây dựng các sân bay đẳng cấp quốc tế, sử dụng lao động có tay nghề cao, cải thiện đường sá và đường cao tốc. Nên có nhiều khách sạn cung cấp chỗ ở cho người nước ngoài với giá cả phải chăng. Một người có thể ở khách sạn năm sao tại Việt Nam với 100 USD trong khi tại Bangladesh là 200 USD. Nhiều năm qua, chúng ta đã được nghe về Công viên CNTT-VT nhưng đến nay vẫn chưa có cơ sở nào vận hành. Ngược lại, Việt Nam đã thành lập nhiều công viên, vườn ươm và làng CNTT-VT. Myanmar hiện cũng có 6 khu CNTT. Công viên CNTT Yangon có 42 tổ chức đặt trụ sở.

Thứ ba, chúng ta phải sử hữu nguồn nhân lực có tay nghề cao để thu hút đầu tư nước ngoài. Chúng ta không cần phải quá buồn bã khi nhìn vào Việt Nam. Bangladesh có tiềm năng lớn, người dân làm việc rất chăm chỉ. Chúng ta đã tự cung tự cấp trong ngành sản xuất thực phẩm. Ngành công nghiệp may sẵn có doanh thu 20-22 tỷ USD. Nếu kết hợp được những nỗ lực này, ngành CNTT-VT của chúng sẽ thành công hơn Việt Nam trong tương lai gần.

Lê Vin (theo Kaler Kantho)

Ý kiến

()